HƯỚNG VỀ QUÊ HƯƠNG THẠCH THẤT HƯỚNG VỀ QUÊ HƯƠNG THẠCH THẤT

Chùa Tây Phương- di tích quốc gia đặc biệt- phần 2: Sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc điểm của di tích
Ngày đăng 21/04/2015 | 09:17  | Lượt xem: 3652

Chùa Tây Phương thờ Phật theo tông Tịnh – Thiền. Chủ thuyết của tông này lấy Tín – Nguyện – Hành làm phương pháp tu trì và thiền định giữ cho tâm an lạc nhằm vãng sinh tới cõi Tây phương cực lạc của Đức Phật ADiĐà...

IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH:

1. Lược sử về sự hình thành của đạo Phật và quá trình du nhập vào Việt Nam:

Chùa Tây Phương thờ Phật theo tông Tịnh – Thiền. Chủ thuyết của tông này lấy Tín – Nguyện – Hành làm phương pháp tu trì và thiền định giữ cho tâm an lạc nhằm vãng sinh tới cõi Tây phương cực lạc của Đức Phật ADiĐà. Căn cứ vào cuốn “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, “ Việt Nam Phật giáo sử lược” của cố Thượng tọa Thích Mật Thể và những kinh sách, Phật sử thì sự tích của Đức Phật Thích ca và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam có thể tóm tắt như sau:

Cách đây hơn 2500 năm về trước, tại thành bang Ca Tỳ La Vệ có vị vua tên là Tịnh Phạn, Hoàng hậu là Ma Ha Ma Da sinh hạ được một hoàng tử tên là Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tỳ Ni. Khi sinh, Ngài tư bẩm thông minh, hào quang trác khí, quí tướng khác người. Nhà vua và hoàng hậu vui mừng khôn xiết.

Năm lên bẩy tuổi, Ngài theo học phái Bà La Môn, thông tường các khoa nghị luận, triết học và bắt đầu chán nản cuộc đời vinh hoa phú quý và buồn đau cho thế cuộc nhân sinh.

Năm 16 tuổi, Ngài vâng mệnh vua cha cưới ba vị phu nhân là La Gia, Gia Du Đà La, Lộc Giả và sinh hạ được một quý tử là La Hầu La.

Năm 19 tuổi, xuất phát từ lòng từ bi hỉ xả, Ngài thấu hiểu tứ khổ của đời người không thể thoát khỏi : Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Vì vậy, Ngài quyết tâm rời bỏ cung vàng gác tía, loan phượng lầu son để ra đi tìm chân lý, giải luận cho qui luật nhân sinh.

Ngài vào hang núi chịu đói rét tu luyện nhằm tìm ra phương pháp cứu con người thoát vòng khổ ải tại Khổ Hạnh lâm. Trong sáu năm tu luyện, Ngài không chứng được đạo quả gì nên liền đi tới núi Tượng Đầu bên sông Ni Liên Thiền tắm rửa. Tắm xong, Ngài thọ bát sữa của mấy nàng thục nữ rồi một mình ở đó tịnh tọa suy xét dưới gốc cây Bồ đề.

Sau 49 ngày định tâm quán tưởng, Ngài bỗng thấy trong tâm sáng suốt, nhìn rõ vạn vật vũ trụ và lý giải được nguyên nhân của tử sinh. Ngài đã thành Phật và lấy hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Khi thành Phật, Ngài chu du khắp các lưu vực sông Hằng giáo hóa chúng sinh trở lên gác tĩnh, qui y tu hành, diệt mê muội, diệt khổ để chứng đạo Niết bàn.

Năm 80 tuổi, Ngài tịnh diệt tại thành Câu Thi La - Ấn Độ. Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ma Ha Ca Diếp thay Phật thống suất tăng chúng, giảng tụng đạo lý của Phật đã dậy. Lịch sử Phật giáo coi đây là cuộc kết tập chúng bộ lần thứ nhất. Từ đó, đạo Phật chia làm hai phái: Đại Thừa và Tiểu Thừa và truyền bá sang các vùng lân cận, trở thành một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới.Trải qua các thời kỳ kết tập, Phật giáo có lúc thịnh lúc suy, truyền đăng kế tổ.

Theo “ Việt Nam Phật giáo sử lược” thì truyền tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, từ Tây Trúc qua Trung Hoa truyền pháp, rồi truyền tiếp cho các vị tổ sư về sau. Từ Trung Hoa, Phật giáp du nhập vào Việt Nam.

Tại Trung Hoa khi ấy Ngài Tì Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam, lập thành vị tổ thứ nhất phái Thiền tông, sau truyền cho tổ Pháp Hiền.

Thời thuộc Đường ( 820), có Ngài Vô Ngôn Thông sang lập thành phái Thiền tông thứ hai ở Việt Nam. Tiếp đến là các phái Thảo Đường, Tào Động, Lâm Tế, Trúc Lâm Yên Tử…

Sau khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, trải các thời Tiền, Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần… Phật giáo có lúc trở thành Quốc đạo, sau lại suy vi rồi hưng thịnh.

Trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, đạo Phật tồn tại song hành với tư cách là một trong những tôn giáo phổ quát của nước ta, tạo thế cân bằng tâm linh trong cuộc sống. Do vậy, các ngôi chùa thờ Phật đã được xây dựng và phát triển.

Chùa Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất cũng là một trong những ngôi chùa được khởi dựng từ xa xưa. Chùa ra đời nhằm đáp ứng  nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Ngôi chùa được dựng lên nhằm phổ bác giáo lý của nhà Phật để khuyến thiện trừng ác, giáo dục lòng nhân nghĩa cho con người. 

2. Quá trình xây dựng, bảo quản, tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích và kết quả nghiên cứu về di tích:

          2.1.Quá trình xây dựng, bảo quản, tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích: 

   Chùa Tây Phương đã được các học giả nghiên cứu khá nhiều, đăng tải trên các sách, báo và tạp chí chuyên ngành về quá trình xây dựng, tu bổ, bảo quản. Năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) niên hiệu Quang Bảo năm thứ nhất chùa được làm quy mô như ngày nay.

Năm Canh Tý đời vua Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Thọ năm thứ 3 (1660), Chúa Tây Vương Trịnh Tạc (1657-1682) đã qua đây thấy cảnh chùa trang nghiêm đẹp đẽ nên cho tu sửa và làm Tam quan.

Rất tiếc, việc kiểm chứng lại những tư liệu lịch sử này là rất khó, nhưng những ghi chép này cũng có phần thống nhất với các dòng chữ khắc trên các cấu kiện Thượng lương của chùa. Đó là các phát hiện trong đợt tu bổ di tích của Bộ Văn hóa năm 1957- 1958, khi tháo dỡ các cấu kiện kết cấu mái chùa, các cán bộ, công nhân đã phát hiện tại Thượng lương chùa Thượng ghi “Giáp Dần quý đông tạo” nghĩa là: Làm năm Giáp Dần tháng 12. Tại Thượng lương chùa Trung ghi: “Giáp Dần quý đông cát nhật tạo. Canh Tý mạnh thu cát nhật tu lý” nghĩa là: Làm năm Giáp Dần tháng 12 ngày tốt. Tu sửa năm Canh Tý tháng 7 ngày tốt. Tại Thượng lương chùa Hạ ghi: “Canh tý trọng thu cát nhật tu lý” nghĩa là: Tu sửa năm Canh Tý tháng 8 ngày tốt. Như vậy, kiến trúc chính của chùa với dạng mặt bằng chữ Tam “” mà ngày nay chúng ta được chiêm ngưỡng có thể đã được tạo dựng vào năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên.  

Những cứ liệu xác định thời điểm tu tạo của ngôi chùa ngày nay được ghi chép tương đối đầy đủ ở những văn tự đang lưu tại chùa, thể hiện trên tấm bia Tây Phương sơn, Sùng Phúc tự tạo thạch bi có ghi:

“Tây Phương sơn Sùng Phúc tự gia trí lục nghi thanh trai câu thất, đãn chí Nhâm Thân niên thập nhất nguyệt thập nhị nhật tái khởi công trung tu bản tự: thượng điện, thiêu hương hậu đường cập tân tạo tam quan, hành lang tiền hậu nhị thập nhị gian thổ mộc.(Chùa Sùng Phúc trên núi Tây Phương làm tự cổ xưa, cảnh cũ để lại nay đã hỏng nhiều chỗ. Năm Nhâm Thân ngày 12 tháng 11 khởi công tu sửa thiêu hương, thượng điện, nhà hậu, làm mới tam quan, hành lang trước sau, hai mươi hai gian bằng gỗ lợp ngói). Tấm bia còn ghi nội dung ... ngày 2 tháng 2 năm Ất Hợi đặt lễ (hội) an tượng, khai quang điểm nhãn.”

Theo đó, năm Nhâm Thân này là năm 1632 vì thời điểm tấm bia được dân làng lập này là “Đức Long thất niên tuế thứ, Ất Hợi niên nhị nguyệt sơ nhị nhật”, tức năm Đức Long thứ 7, Ất Hợi ngày 2 tháng 2 (1635). Như vậy, đồng thời với việc dựng chùa thì việc tạo tác tượng cũng được thực hiện. Mặt khác, trong nội dung của văn bia ghi rõ người công đức việc tạo dựng chùa là “Đại nguyên soái Thống quốc chính sư phụ Thanh Vương Trịnh Thiệu Thiên phủ chúa, Vĩnh Phúc huyện, Sóc Sơn xã, Công chúa Trịnh Thị Ngọc Xuân. Phu Nghĩa phủ, Vĩnh Phúc huyện, Sóc Sơn xã, Công chúa Trịnh Thị Ngọc Bổng tự Huệ Tiên hiệu Pháp Trứ. Hạ Hồng phủ, Kỳ Sơn huyện, Cải Miện xã, Phú Lâm thôn, Thanh Lại tri nhạc bộ phò mã Lộc Quận Công… (chữ bị mờ)” Tạm dịch: “Đại nguyên soái Thống quốc chính sư phụ Thanh Vương Trịnh Thiệu (tức chúa Trịnh Tráng) cùng công chúa Trịnh Thị Ngọc Xuân (công đức). Công chúa Trịnh Thị Ngọc Bổng tự Huệ Tiên hiệu Pháp Trứ xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, phủ Phu Nghĩa. Thanh Lại tri  nhạc bộ phò mã Lộc Quận công ...”. Đó cũng là những người đã sống trong khoảng thời gian những năm đầu thế kỷ XVII. 

Đồng thời, tấm bia niên hiệu Chính Hòa năm thứ 11 Canh Ngọ (1690) có ghi việc dựng lại hạng mục Tam quan chùa như sau: “Ngôi Tam quan chùa đổ nát. Ngày nay làm lại mới ngôi Tam quan xưa. Khởi công từ năm Kỷ Tỵ (1689) đến tháng ba năm Canh Ngọ (1690) ngày tốt hoàn thành.”. Như vậy, lúc này hạng mục Tam quan mới dựng năm 1632 đã đổ nát, nên nhà chùa và dân làng đã hưng công dựng lại năm 1690.                                 

Đến cuối thế kỷ XVIII, nhà ngoại giao tài giỏi dưới thời Tây Sơn – danh sĩ Phan Huy Ích đã ghi bài Minh trên chuông đồng của chùa được đúc năm Cảnh Thịnh thứ 6, Mậu Ngọ tháng 4 (1798) có nội dung như sau:

“Núi Tây Phương ở thôn Nguyễn Xá, huyện Thạch Thất là một quả núi đẹp, cây cỏ xanh tươi. Núi Câu Lậu xưa kia có nhiều chu sa (son đỏ) tức là chốn này. Trên đỉnh núi có ngôi chùa vắng vẻ nổi tiếng là một cảnh đẹp.

Niên hiệu Vĩnh Hựu (triều Lê Hy Tông 1735-1739) có lệnh sai quan Trung sứ xuất của kho ra sửa chữa chùa, khắc tô tượng Phật quy chế rất là lớn, tiếng kệ kinh sang sảng nổi lên.

Đến khi thế vận đổi thay cảnh giới đều vắng, chuông đồng bị mất, đài phật hỏng dần, quả là vận số thịnh suy tùy theo vận hội của trời đất đó ư!

Năm Mậu Thân (1788) tôi tránh qua vùng này, bồi hồi thăm hỏi việc xưa. Đã có ý ngày sau dưới bóng tùng lâm nâng chén rượu.

Nay gặp thời bình, đạo Phật hưng thịnh, các thiện nam tín nữ chung lòng cùng nhau quyên tiền sửa lợp chùa cũ, lại đúc quả chuông hơn hai trăm cân.

Nhân dịp tôi xin tạm nghỉ về thăm tỉnh (Sơn) Tây lên núi viếng chùa, các kỳ lão trong thôn tới xin tôi viết bài ký kể lại công việc. Tôi hơi thông hiểu đạo giữ mình của nhà Phật, hay khuyên người ta làm điều phúc thiện nên mới cầm bút lược thuật đầu đuôi và chép thêm bài minh rằng:

Câu Lậu chót vót

Nước chảy quanh vòng

Một ngọn cao ngút

Vụ trị khơi lòng

Đạo gửi ở không

Cội gốc khôn cùng

Lòng người bản thiện

Đời đời thủy chung

Nhất Hội chủ Dực vận công thần Đặc tiến đại phu

Thị trung ngự sử Thụy nham hầu Phan Huy Ích”.

Như vậy, vào thời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Hựu, thế kỷ XVIII, hệ thống tượng pháp tại chùa đã được tạo tác với quy mô như ngày nay. Đến đầu thế kỷ XIX, việc tạo tác tượng chùa còn được Phan Huy Ích ghi chép trong lời chú bài thơ: “Thu đăng Tây Phương sơn tự ký kiến” ( Mùa thu lên chùa núi Tây Phương ghi lại những cảnh nhìn thấy) trong đó đã nhấn mạnh rằng chúa Uy vương Trịnh Giang đã sai sửa chùa và tạc “mười pho tượng cực kỳ khéo léo” điều này, có lẽ ông đã đề cập đến việc tạo tác bộ tượng “Bát bộ Kim cương” tức bộ tượng tám vị Kim cương, tượng Thái tử Kỳ Đà - những bức tượng được chạm khắc tinh vi, với các họa tiết rực rỡ, trang trí cân đối, đẹp đẽ dung dị trong bộ tượng thờ của di tích, thể hiện một sự quan sát tinh tế, huyền diệu thông qua hình thức “tả chân” giàu tính nghệ thuật nhất mà chúng ta được chiêm ngưỡng từ những tác phẩm Nghệ thuật được tạo hình trong thế kỷ XVIII.

Mặc dù hình thức kiến trúc thủa ban đầu của chùa do Cao Biền tạo dựng (thế kỷ IX) đến nay không còn được lưu giữ, ghi chép, nhưng các dấu tích Kiến trúc chùa Tây Phương trải qua nhiều trăm năm từ những chứng tích đã nêu thuộc thế kỷ XVII (1632) đến nay tuy đã được “tu lý” nhiều lần, nhưng những dạng thức kiến trúc của chùa còn lại đến ngày nay vẫn cho chúng ta khá nhiều thông tin quý giá, từ cách sử dụng kết cấu gỗ điêu luyện, nội dung kết cấu thống nhất với hình thức kiến trúc, ngôn ngữ kiến trúc trong sáng, minh triết thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan truyền thống của người Việt là những điều chúng ta càng đi sâu tìm hiểu, càng thấy rõ sự trác tuyệt của tác phẩm kiến trúc gỗ độc đáo của thế kỷ XVII này.

   2.2. Kết quả nghiên cửu về di tích:

   Cùa Tây Phương là một di tích kiên trúc nghệ thuật đặc sắc ở miền Bắc Việt Nam và đã được các nghiên cứu quan tâm.Quá trình này có thể chia thành các giai đoạn sau:

   - Giai đoạn trước năm 1960:

   + Năm 1959, học giả người Pháp là L. Bezacier công bố tập bản vẽ kiến kiến trúc “Những đạc họa về các kiến trúc cổ ở miền Bắc Việt Nam”,trong đó có một số bản vẽ chùa Tây Phương.

+ Năm1959, Trần Thụ và Thanh Bình trong “Di tích lịch sử và thắng cảnh Sơn Tây” đã viết về chùa Tây Phương trong mục Di tích nghệ thuật kiến trúc tỉnh Sơn Tây.

Ngoài ra,còn một số công trình nghiên cứu nhỏ lẻ khác.

-         Giai đoạn từ năm 1960 đến nay:

+ “Chùa Tây Phương, một công trình kiến trúc độc đáo” của Nguyễn Cao Luyện đã giới thiệu cho độc giả một cách khái quát về ngôi cổ tự này.

+ Trong cuốn “Mỹ thuật của người Việt” của Nguyễn Quân và Phan Cẩm Thượng đã đề cập hai nội dung: Kiến trúc và điêu khắc.

+ Ấn phẩm “ Thăng Long, Đông Đô,  Hà Nội” viết dưới dạng địa chí văn hóa dân gian đã đặt chùa Tây Phương vào một trong tám công trình kiến trúc cổ đặc sắc của Hà Nội (cũ).

+ Vũ Tam Lang trong “Kiến trúc cổ Việt Nam” đã giới thiệu trên các mặt lịch sử xây dựng, kết cấu kiến trúc với những điểm độc đáo của kiến trúc nghệ thuật điêu khắc.

+ Tác giả Đặng Đức Siêu, Nguyễn Vinh Phúc, Phạm mai Hùng trong cuốn “ Việt Nam – di tích – danh thắng” đã dành một số trang giới thiệu về chùa Tây Phương. Ngoài tên gọi quen thuộc, chùa Tây Phương hay Sùng Phúc tự,các tác giả còn đươ ra tên gọi khác là Hoành Sơn Thiếu Lâm tự. Đây là điểm mới trong quá trình tìm hiểu về tên gọi chùa Tây Phương.

+ Tác giả Hà Văn Tấn trong cuốn “Chùa Việt Nam” cho rằng: Chùa Tây Phương là một trong hai ngôi chùa nổi tiếng được xây dựng vào thời Tây Sơn.

+ “Từ điển di tích văn hóa Việt Nam” cho rằng chùa Tây Phương là một trung tâm Phật giáo Tịnh Độ tông có tiếng của vùng Thăng Long.

+ Đề cập tới tượng Phật giáo thời Tây Sơn, tác giả Trần Lâm Biền trong cuốn “ Chùa Việt” cho rằng, hệ thống tượng tại chùa Tây Phương là những pho tượng điển hình của nền điêu khắc tượng tròn thế kỷ XIII…  

 

Xem lại: "Chùa Tây Phương- di tích quốc gia đặc biệt- phần 1: Tên gọi, địa điểm, đường đi đến và phân loại di tích"

Xem tiếp "Chùa Tây Phương- di tích quốc gia đặc biệt- phần 3: Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng liên quan đến di tích"

 

Nguồn: Hồ sơ di tích Quốc gia đặc biệt Chùa Tây Phương